Mô tả Fossa

Xương sọ Fossa

Diện mạo fossa như một dạng thu nhỏ của loài mèo lớn, chẳng hạn báo sư tử,[15] nhưng với một cơ thể mảnh mai và tứ chi cơ bắp,[9] cùng chiếc đuôi kéo dài gần bằng phần còn lại cơ thể.[15] Phần đầu giống cầy mangut,[9] tương đối dài hơn so với một con mèo,[15] mặc dù chiếc mõm rộng[9] và ngắn,[15] cùng đôi tai lớn nhưng tròn.[4][15] Đôi mắt nâu cỡ vừa tương đối rộng tách biệt với đồng tử co lại thành khe hở. Giống như nhiều loài ăn thịt săn mồi ban đêm, fossa có đôi mắt phản chiếu ánh sáng; ánh sáng phản xạ có sắc thái da cam.[9] Chiều dài từ đầu đến hết thân đạt 70–80 cm (28–31 in) còn đuôi dài 65–70 cm (26–28 in). Có vài điểm dị hình giới tính nhất định, với con đực trưởng thành (nặng 6,2–8,6 kg hoặc 14–19 lb) lớn hơn con cái (5,5–6,8 kg hoặc 12–15 lb).[15] Cá thể nhỏ đặc thù phân bố phía bắc và đông Madagascar, trong khi cá thể lớn sống tại phía nam và phía tây.[4] Cá thể lớn bất thường cân nặng lên đến 20 kg (44 lb) cũng được báo cáo, nhưng một số nghi ngờ độ tin cậy về số đo.[15] Fossa có thể ngửi thấy, nghe và nhìn tốt. Fossa là loài vật cường tráng; fossa nuôi nhốt hiếm gặp bệnh tật.[16]

Sọ (lưng, bụng và hông) và hàm dưới (hông và lưng)

Cả giống đực lẫn giống cái có bộ lông thẳng, ngắn; tương đối rậm và không có đốm hay hoa văn. Cả hai giới thông thường có màu nâu đỏ trên lưng và màu kem bẩn dưới bụng. Khi động dục, chúng có thể xuất hiện màu da cam dưới bụng do một chất màu đỏ tiết ra bởi sự bài tiết tuyến ngực, nhưng điểm này không được giới nghiên cứu thống nhất quan sát. Đuôi có xu hướng sáng màu hơn hai bên hông. Fossa còn non hoặc có màu xám hoặc gần như màu trắng.[4][15]

Một số đặc điểm cơ thể con vật thích nghi để leo trèo lên cây.[9] Sử dụng đuôi giữ thăng bằng và móng vuốt bán co rút dùng để leo cây tìm mồi.[15] Sở hữu bàn chân di chuyển bán gan,[4] biến chuyển giữa dáng đi bằng gan bàn chân (khi sống trên cây) và dáng đi bằng đầu ngón chân (khi sống trên mặt đất).[17] Lòng bàn chân gần như để trần và bao phủ bằng lớp lót chắc khỏe.[4] Mắt cá chân rất linh hoạt cho phép fossa dễ dàng túm giữ thân cây để trèo lên hoặc tụt xuống hoặc nhảy sang cây khác.[9] Fossa non nuôi nhốt có khả năng đánh đu lộn ngược bằng chân sau khỏi dây thừng thắt nút.[9]

Fossa có vài tuyến mùi hơi, mặc dù các tuyến đều kém phát triển ở fossa cái. Tương tự họ cầy mangut, chúng có tuyến da quanh hậu môn bên trong một túi hậu môn bao quanh hậu môn giống như một túi. Chiếc túi mở ra về phía ngoài với một khe ngang bên dưới đuôi. Tuyến khác nằm gần dương vật hoặc âm đạo, tuyến dương vật phát ra mùi nồng. Giống như cầy mangut, loài không có tuyến bìu dái.[4]

Bộ phận sinh dục ngoài

Một trong những đặc điểm cơ thể khác thường hơn ở loài này là cơ quan sinh dục ngoài của chúng. Fossa đực có dương vật dài bất thường và xương dương vật,[18] vươn đến giữa hai chân trước khi cương cứng, với độ dày trung bình 20 mm (0,79 in).[19] Qui đầu kéo dài khoảng nửa chừng xuống trục và có gai ngoại trừ ở đỉnh. So sánh tương đồng, qui đầu của họ mèo ngắn và có nhiều gai, trong khi đó ở họ cầy thì mịn và dài.[4] Fossa cái biểu hiện thoáng qua tính chất giống đực, bắt đầu từ khoảng 1-2 tuổi, phát triển một âm vật mở rộng, có nhiều gai tương tự như dương vật con đực. Âm vật mở rộng nhờ một xương âm vật hỗ trợ,[15][20] điều này làm giảm kích thước ở con vật phát triển.[17] Con cái không có bìu dái giả,[15] nhưng chúng tiết ra một chất màu cam tạo màu sắc dưới bụng, giống như chất tiết của con đực.[21] Mức độ nội tiết tố (testosterone, androstenedione, dihydrotestosterone) dường như không đóng vai trò tạo nên một phần tính chất giống đực này, những mức độ tương tự như nhau ở con non biến tính giống đực và con trưởng thành không biến tính giống đực. Nghiên cứu suy xét rằng biến tính giống đực hoặc khiến con đực trưởng thành giảm quấy rối tình dục con cái còn non, hoặc làm giảm sự xâm lược lãnh thổ giống cái.[15] Trong khi giống cái thuộc những loài hữu nhũ khác (chẳng hạn linh cẩu đốm) có một dương vật giả,[22] không hề thu nhỏ kích thước khi con vật phát triển.[21]

So sánh với loài ăn thịt họ hàng

Nhìn chung, fossa có đặc điểm chung với ba họ ăn thịt khác nhau, các nhà nghiên cứu hàng đầu sắp xếp chúng và những thành viên khác thuộc họ Eupleridae chung với các họ Herpestidae, Viverridae và Felidae. Đặc điểm loài họ mèo chủ yếu liên quan nhiều đến ăn uống và tiêu hóa, bao gồm cả hình dạng răng và phần mặt hộp sọ, lưỡi và đường tiêu hóa,[4] đặc thù cho chế độ ăn thịt dành riêng của loài.[9] Phần còn lại của hộp sọ gần giống nhất với hộp sọ loài thuộc chi Viverra, trong khi cấu trúc cơ thể tổng quát tương đồng nhiều nhất với thành viên khác thuộc họ Herpestidae. Nha thức cố định là 3.1.3 − 4.1 3.1.3 − 4.1 {\displaystyle {\tfrac {3.1.3-4.1}{3.1.3-4.1}}} (ba răng cửa, một răng nanh, ba hay bốn răng tiền hàm, một răng hàm trên mỗi bên của cả hàm trên lẫn hàm dưới), công thức răng sữa tương tự nhưng thiếu răng cửa thứ tư và răng hàm. Fossa có một lớp bề mặt rhinarium rộng, nhô lên tương tự loài họ cầy, nhưng có đôi tai tròn, tương đối rộng, gần như rộng cỡ những loài họ mèo kích thước tương tự. Ria mép trên mặt dài, ở cá thể dài nhất còn dài hơn phần đầu. Giống như một vài chi cầy mangut, phần lớn thuộc chi Galidia (hiện tại thuộc họ riêng do fossa sở hữu, họ Eupleridae) và Herpestes (thuộc họ Herpestidae), chúng có ria mép cổ tay tương tự. Bộ móng vuốt co rút, nhưng không giống những loài họ mèo, chúng không ẩn giấu trong lớp vỏ da. Loài có ba cặp núm vú (một ở bẹn, một ở bụng và một trên ngực).[15][4]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Fossa //www.amazon.com/dp/B0006FE92Y //www.amazon.com/dp/B000LPMXS6 http://www.britannica.com/EBchecked/topic/214490 http://discovermagazine.com/2000/apr/featdeadliest http://erikpatel.com/Patel%202005_predation.pdf http://www.google.com/books?id=JgAMbNSt8ikC&pg=PA5... http://www.lynxeds.com/hmw/species-accounts/hmw-1-... http://www.gtoe.de/public_html/publications/pdf/1-... http://www.departments.bucknell.edu/biology/resour... http://www.bucknell.edu/msw3/browse.asp?id=1400044...